Tìm kiếm

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Hướng dẫn cấu hình Windows Server 2008 làm RADIUS Server cho VPN routers (Cisco, Draytek...)

Hướng dẫn cấu hình Windows Server 2008 làm RADIUS Server cho VPN routers (Cisco, Draytek...)

EmailInPDF.

Lợi ích

Một số loại VPN Router (ví dụ Draytek V27xx, V29xx, V33xx hoặc Cisco ASA 5510, 18xx, 28xx, 38xx...) mặc dù đều cho phép tạo User Profile ngay trên router nhưng có nhược điểm là số lượng người dùng bị giới hạn (thường khoảng 30-100 người dùng) và nhất là gây khó khăn trong việc sử dùng bởi người dùng phải nhớ nhiều loại mật khẩu (mật khẩu đăng nhập vào VPN Server, mật khẩu đăng nhập vào AD...)
Sử dụng xác thực RADIUS Server, người dùng có thể sử dụng ngay mật khẩu AD để truy xuất từ xa tới và đăng nhập vào VPN Server trên Router. Hơn nữa, sau khi xác thực với RADIUS Server thành công, người dùng có thể truy cập được ngay vào các tài nguyên trên mạng nội bộ như các thư mục chia sẻ, máy in... mà không cần phải đăng nhập lại. Quản trị mạng có thể quản lý và kiểm tra việc sử dụng của từng người dùng thông qua file log (text / MS SQL) trên RADIUS Server.
Ngoài ra, RADIUS Server còn được sử dụng để cung cấp dịch vụ xác thực người dùng cho nhiều loại Network Access Server (NAS) khác như Remote Desktop Gateway (xác thực người dùng khi truy cập máy tính từ ra), DHCP Server (cấp phát IP dựa trên xác thực người dùng)...

Triển khai

Trong hướng dẫn này, chúng tôi sẽ lấy ví dụ triển khai Server 2008 R2 để làm RADIUS Server cho VPN router Draytek V29xx hoặc Cisco ASA 5510. Đối với các loại router khác, cách làm gần tương tự.
  • Địa chỉ IP của Router: 192.168.1.1
  • Địa chỉ IP của RADIUS Server: 192.168.1.2
  • VPN Users: là nhóm Domain Users Group hoặc Windows Group của các người dùng được quyền truy xuất VPN.

Cấu hình trên VPN Router

1. Draytek 29xx: trong menu Applications chọn RADIUS, nhập địa chỉ IP của RADIUS Server trong mạng LAN và Shared Secret. Xác nhận mật khẩu lần nữa trong ô Confirm Shared Secret rồi bấm OK (hình dưới).
Radius Setting for Draytek
2. Cisco ASA 5510: truy cập vào menu Configuration.
Tạo IP Name object cho RADIUS Server
  1. Trong phần Firewall, bấm vào liên kết Objects và chọn IP Names.
  2. Bấm nút Add ở phía trên.
  3. Nhập tên, địa chỉ IP và mô tả cho RADIUS Server. Ví dụ: Name: RADIUS; IP: 192.168.1.2; Mô tả: AD / RADIUS.
  4. Bấm OK và sau đó bấm Apply.
Tạo một AAA Server Group mới
  1. Bấm vào phần Remote Access VPN.
  2. Chọn AAA Setup và chọn AAA Server Groups.
  3. Bấm vào nút Add ở bên phải của phần AAA Server Groups.
  4. Đặt tên cho nhóm (grourp) ví dụ TEST và chọn RADIUS protocol.
  5. Các thiết lập khác chọn ngầm định (default settings). Bấm OK.
Thêm RADIUS server vào Server Group mới tạo
  1. Chọn server group vừa mới tạo ở bước trên.
  2. Bấm nút Add ở bên phải của Servers trong Select Group.
  3. Trong Interface Name chọn loại giao tiếp trên router ASA sẽ truy cập vào RADIUS server, ở đây là "inside".
  4. Trong mục Server Name or IP Address nhập IP Name mà bạn đã tạo cho RADIUS server ở bước đầu tiên.
  5. Trong ô Server Secret Key khai báo một mật khẩu đủ phức tạp (độ dài và loại ký tự sử dụng, mức độ phức tạp phải tuân thủ theo tài liệu hướng dẫn loại router). Ghi nhớ mật khẩu này vì bạn sẽ cần phải khai báo khi cấu hình RADIUS server. Xác nhận lại mật khẩu lầ nữa trong ô Common Password.
  6. Các thiết lập khác chọn ngầm định (default settings). Bấm OK.
Chú ý: theo kinh nghiệm của chúng tôi, mặc dù tài liệu hướng dẫn router không đề cập, passkey không nên dài hơn 32 ký tự và chỉ gồm số và chữ (alphanumeric). Passkey 66 ký tự do Windows tự tạo không hoạt động với một số loại router. Bạn cũng không cần phải tạo User Profile trên router nữa vì việc xác thực sau này sẽ do RADIUS Server đảm nhiệm.

Cấu hình RADIUS trên Windows Server 2008 R2

Bước 1: Bố sung NPS Server
Network Policy Server 2008
  1. Khởi động Server Manager. Chọn Roles và bấm vào Add Roles ở bên phải. Ấn Next.
  2. Chọn Network Policy và Access Services Role. Ấn Next.
  3. Chọn Network Policy Server (hình bên phải). Ấn Next.
  4. Ấn Install.
Sau khi cài đặt role thành công, bạn thực hiện cấu hình bằng cách sử dụng công cụ Network Policy Server (NPS) trong menu Administrative Tools.
Bước 2: Đăng ký server với AD
Register NPS to AD
  1. Sau khi chạy công cụ NPS, ấn nút phải vào mụcNPS(Local) và chọn Register Server in Active Directory.
  2. Thực hiện theo hướng dẫn (chọn các thiết lập ngầm định). Xem hình bên phài.
Chú ý: để thực hiện được việc này, bạn cần có quyền Domain Admins.
Bước 3: Tạo RADIUS client cho Router
  1. Ấn dấu + để mở rộng thư mục RADIUS Clients and Servers.
  2. Bấm nút phải chuột vào RADIUS Clients rồi chọn New RADIUS Client.
  3. Đặt tên (Friendly Name) cho router. Ví dụ "CiscoASA" hoặc "V2950". Bạn lưu ý nên đặt tên là duy nhất và dễ nhớ và đủ đơn giản để dễ dàng khai báo khi tạo các Policy ở các bước sau.
  4. Nhập mật khẩu (Server Secret Key, Pre-Shared Key, PassKey...) mà bạn đã khai báo khi cấu hình router rồi xác nhận lại lần nữa trong ô Confirm shared secret.
  5. Các thiết lập khác đặt ngầm định. Bấm OK để hoàn thành việc tạo RADIUS Client (hình dưới).
RADIUS client propertiesAdd new RADIUS client



























Bước 4: Tạo một Connection Request Policy
Connection Request Policy để RADIUS Server xác định sẽ tiếp nhận các yêu cầu xác thực đến từ đâu và có các thông số như thế nào. Bạn có thể tạo nhiều Connection Request Policy cho nhiều mục đích xác thực khác nhau.
  1. Ấn dấu + để mở rộng thư mục Policies.
  2. Bấm nút phải chuột vào Connection Request Policies rồi chọn New.
  3. Đặt tên cho Policy Name sao cho có liên hệ với loại router mà bạn đã tạo trong RADIUS client ví dụ CiscoASA hoặc V2950. Chọn Type of network access server là Unspecified rồi ấn Next.
  4. Trong thẻ Conditions bấm Add. Chọn điều kiện Client Friendly Name rồi bấm Add… sau đó nhập tên mà bạn đã khai báo ở mục 3 bước 3 ví dụ V2950. BấmOK rồi ấn Next.
  5. Trong hai trang sau đó, chọn các thiết lập mặc định (default settings) rồi ấn Next.
  6. Trong mục Specify a Realm Name chọn tùy chọn Attribute ở cột bên trái. Trong menu tương ứng bên phải, chọn trong menu thả xuống Attribute: giá trịUser-Name. Ấn Next lần nữa.
  7. Xem lại các thiết lập lần cuối trong trang tiếp theo rồi ấn Finish.
Chú ý: Bạn có thể chọn Type of network access server là Remote Access Server (VPN-Dial up) hoặc một kiểu khác tùy thuộc vào NAS mà bạn muốn triển khai như hình dưới đây. Tuy nhiên nếu NAS của bạn là switch xác thực 802.1X hoặc điểm truy cập không dây WAP, chọn Unspecified.
Network Connection MethodsBước 5: Tạo Network Policy
  1. Bấm nút phải chuột vào thư mục Network Policy và chọn New.
  2. Đặt tên cho Policy Name. Khai báo Type of network access server là Unspecified rồi ấn Next (xem chú ý ở trên).
  3. Trong thẻ Conditions ấn Add. Giả sử bạn tạo policy này nhằm mục đích áp dụng cho nhóm người dùng VPN Users và truy cập từ xa qua RADIUS Client V2950. Thực hiện tiếp như sau:
  4. Bổ sung điều kiện Users Group rồi chọn nhóm VPN Users.
  5. Bổ sung điều kiện Client Friendly Name rồi chọn tên mà bạn đã khai báo cho RADIUS client ví dụ V2950.
  6. Bấm Next. Chọn Access granted (ngầm định) và bấm Next lần nữa.
  7. Trong thẻ Constraints, giữ nguyên các thông số mặc định và bấm Next.
  8. Trong thẻ Settings, giữ nguyên các thông số mặc định và bấm Next. Xem lại các thiết lập lần cuối trước khi ấn Finish.
conditionsBước 6: Restart Network Policy Server service

Kiểm tra xác thực RADIUS và lưu cấu hình trên router

Không phải loại router nào cũng có chức năng kiểm tra xác thực RADIUS. Ví dụ sau đây hướng dẫn kiểm tra RADIUS Authentication trên Cisco ASA 5510.
  1. Chọn menu Configuration, rồi chọn Remote Access VPN. Trong AAA Setup, chọn AAA Server Groups.
  2. Chọn Server Group bạn mới tạo.
  3. Trong Servers in the Selected Group, chọn server mà bạn tạo và bấm nút Test ở bên phải.
  4. Chọn nút Authentication. Nhập the Username và Password của một người dùng đáp ứng các điều kiện đã khai báo trong Network Policy mà bạn đã tạo ở trên và bấm OK.
  5. Nếu xác thực RADIUS xảy ra thành công, bạn sẽ thấy thông báo như hình bên dưới.
  6. Lưu cấu hình trên Router.
Test RADIUS connection
Đối với một số loại router khác, kiểm tra RADIUS Authentication thông qua VPN Connection Satus hoặc trong Event Viewer của Windows Server 2008 R2. Hình dưới đây là trang Connection Management của một VPN router Draytek.Test RADIUS (DrayTek)
Test RADIUS (DrayTek)Kiểm tra RADIUS Authentication qua Event Viewer của Windows.eventviewer

Lựa chọn giao thức xác thực (Authentication Protocols) giữa Client và Router và giữ Router với RADIUS Server

Để có thể liên lạc được với nhau, giữa Client và VPN Router và giữa VPN Router với RADIUS Server phải đều hỗ trợ và được cài đặt cùng loại giao thức xác thực. Ví dụ: VPN router Draytek nếu chưa cài đặt certificate thì không thể sử dụng giao thức PEAP hoặc EAP (là giao thức xác thực sử dụng certificate).
Việc thiết lập giao thức xác thực trên Client được thực hiện tại thẻ Security của VPN Connection Properties. Ví dụ xem hình dưới:VPN Connection PropertiesViệc thiết giao thức xác thực giữa VPN Router và RADIUS Server được thực hiện trên mục Authentication Methods của thẻ Constraints đối với Network Policy áp dụng cho RADIUS Client đó (xem hình dưới).Network Policy
Một số router không hỗ trợ xác thực mã hóa (encrypted authentication), khi đó cần chọn thêm Unencrypted authentication (PAP, SPAP)... trong mục Authentication Methods của thẻ Constraints (xem mũi tên ở hình trên).

Thêm bình luận

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

5 lỗi thường gặp trong quản lý lỗ hổng bảo mật

5 lỗi thường gặp trong quản lý lỗ hổng bảo mật


5 loi thuong gap trong quan ly lo hong bao mat
Trong con mắt của một số người vấn đề quản lý các lỗ hổng được xem là một trong những hoạt động quản lý bảo mật chuyên sâu. Lại có một số người khác cho rằng đây chỉ là một quá trình cần thiết mà Microsoft phải làm để cho ra các bản vá cập nhật hàng tháng. Và cũng có không ít người xem đây chỉ là một “cụm từ marketing thông dụng” của các nhà kinh doanh.

Thông qua bài viết sau đây chúng tôi muốn điểm lại một số lỗi thông thường mà các tổ chức nên chú ý để nhằm đạt được sự hoàn thiện trong quản lý lỗ hổng bảo mật trên cả phương diện công nghệ và quy trình.

1. Quét nhưng không có bất kì hành động gì

Lỗi thông thường đầu tiên chính là việc quét và do tìm các lỗi bảo mật nhưng lại không có bất kì một hành động phản ứng nào với các kết quả thu được từ quá trình trên. Các chuyên gia quét và dò tìm lỗi bảo mật đã trở thành những “chiếc kẹp” trong rất nhiều các tổ chức. Công nghệ quét và dò tìm lỗ hổng bảo mật thực sự đã phát triển mạnh và trưởng thành trong những năm gần đây với minh chứng là tính chính xác, tốc độ và mức độ an toàn của những công cụ đã được cải thiện đáng kể.

Tuy nhiên, các công cụ quét thương mại hiện đại hay mã nguồn mở hiện nay vẫn mắc một căn bệnh tương tự như các hệ thống phát hiện cảnh báo sớm (IDS). Thứ nhất, những công cụ kiểu này quá ồn ào vì nhiều lý do khác nhau mà chúng sản sinh ra quá nhiều các cảnh báo. Thêm vào đó, chúng lại không hề nói cho bạn biết là bạn phải làm gì để xử lý các cảnh báo lỗ hổng bảo mật kia cũng như các IDS không nói cho bạn biết bạn phải quan tâm đến một cảnh báo đột nhập cụ thể nào.

Do vậy mà quản lý lỗ hổng bảo mật không phải là việc quét và dò tìm mà điều quan trọng ở đây phải là những việc làm sau khi thực hiện công việc quét và dò tìm. Công việc này bao gồm kiểm kê tài nguyên, ưu tiên và nghiên cứu các hoạt động khắc phục cũng như các hành động thực tế như vá hay cấu hình lại hoặc bảo vệ.

2. Xem việc vá lỗ hổng bảo mật là công việc tương tự như quản lý lỗ hổng bảo mật

Thực tế, công việc vá các lỗ hổng bảo mật là cách thức sửa chữa các lỗ hổng bảo mật đã được đã được biết đến. Thậm trí một số các chuyên gia trong ngành còn cho rằng việc quản lý các lỗ hổng bảo mật là rất đơn giản chỉ bao gồm việc cho vá-sửa mọi vấn đề rắc rối là xong.

Nhưng có rất nhiều các lỗ hổng bảo mật không thể sửa hay vá chỉ bằng cách đơn giản cập nhật phiên bản mới nhất các ứng dụng mà còn đòi hỏi việc phải thay đổi hay cấu hình lại nhiều thông số hệ thống. Do vậy mà công việc quản lý lỗ hổng bảo mật được sinh một yêu cầu cần phải ưu tiên và sửa chữa một cách thông minh các lỗ hổng bảo mật được phát hiện bằng phương pháp vá hay bất kì một phương pháp nào khác.

Vì thế nếu bạn bận vào mọi phút giây trong ngày thứ 3 nhưng không làm bất kì việc gì để loại bỏ mọi lỗ hổng bảo mật trong doanh nghiệp trong suốt 29 ngày còn lại của tháng thì bạn thực sự chưa làm công việc quản lý lỗ hổng bảo mật.

3. Cho rằng quản lý lỗ hổng bảo mật chỉ là một vấn đề kĩ thuật

Nếu bạn nghĩ rằng quản lý lỗ hổng bảo mật chỉ đơn giản là một vấn đề kĩ thuật thì đó thực sự là một điều rất đáng ngạc nhiên. Nhằm đạt được hiệu quả trong công việc này nó cần có sự liên hệ chú ý tới việc cải thiện chính sách và quy trình. Trên thực tế việc tập trung vào quy trình và mặt “mềm” trong các câu đố lỗ hổng bảo mật thường mang lại nhiều lợi ích hơn là một hệ thống vá lỗ công nghệ cao. Có thể nói hiện vẫn tồn tại khá nhiều điểm yếu trong các chính sách cũng như hạ tầng công nghệ thông tin. Ở đây chúng tôi cũng xin không đề cập đến những yếu kém trong chính sách – đây đôi khi cũng được coi là lỗ hổng bảo mật. Lấy ví dụ, nếu bạn không kiên quyết thực hiện một chính sách yêu cầu mật khẩu có độ dài theo quy định thì đó chính là yếu kém hay lỗ hổng trong chính sách của bạn và những chuyên gia quét và dò tìm có thể sẽ không phát hiện ra và hậu quả là sẽ không có bất kì giải pháp nào cho vấn đề này.

Do vậy, mật khẩu yếu, thiếu nhận thức về tính bảo mật dữ liệu cũng như việc thiếu các chuẩn cấu hình máy trạm sẽ có thể mang lại nhiều thiệt hại hơn cho bức tranh bảo mật của bạn cũng như gia tăng các nguy cơ mà bạn phải đối mặt.

Theo các chuyên gia phân tích Gartner thì: “Quy trình quản lý lỗ hổng bảo mật phải bao gồm các công việc như định nghĩa chính sách, xác định danh giới môi trường, ưu tiên, bảo vệ, giảm nhẹ thiệt hai cũng như việc giám sát và bảo trì.”

Như vậy, theo cách hiểu trên thì quy trình quản lý lỗ hổng bảo mật sẽ bắt đầu bằng một văn bản định nghĩa chính sách về các vấn đề như tài nguyên của tổ chức - ứng dụng hay hệ thống – cùng với người sử dụng. Một văn bản như thế này cùng với các quy trình bảo mật khác phải xác định được quy mô của quản lý lỗ hổng bảo mật cũng như xác định các giai đoạn “được xem là tốt” của các nguồn tài nguyên công nghệ thông tin.

4. Đánh giá một lỗ hổng bảo mật mà không nhìn vào bức tranh toàn cảnh

Những người cố gắng tuân thủ một quy trình quản lý lỗ hổng bảo mật hợp lý đôi khi lại mắc phải lỗi thông thường này. Như khi họ phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng trong việc ưu tiên sửa các lỗ hổng bảo mật họ lại thường bỏ qua các góc độ nguy hiểm của sự ưu tiên đó. Lấy ví dụ như họ cố gắng tiếp cận tìm hiểu sự quan trong của các lỗ hổng bảo mật chỉ dựa trên chính các lỗ hổng bảo mật đó thôi mà không nhìn vào bức tranh toàn cảnh mối đe doạ bảo mật đó cũng như các vai trò kinh doanh của hệ thống bị ảnh hưởng.

Chỉ có một cách duy nhất để tránh mắc phải lỗi thông thường thứ tư này chính là sử dụng công thức Risk = Threat x Vulnerability x Value (Nguy cơ = Đe doạ x Lỗ hổng bảo mật x Giá trị) và sử dụng các kết quả của công thức tính này để quyết định xem phải ưu tiên vá lỗ hổng nào trước.

Nhưng để có thể xác lập thứ tự ưu tiên vá các lỗ hổng bảo mật một cách thông minh bạn cần phải quan tâm đến những yếu tố khác trong trong môi trường công nghệ thông tin của chính bạn cũng như môi trường bên ngoài thế giới. Những yếu tố này bao gồm:

- Sự nguy hiểm của các lỗ hổng bảo mật
- Các thông tin có liên quan đến mối đe doạ bảo mật
- Giá trị kinh doanh và thông tin về các hệ thống mục tiêu

Gần đây, một chuẩn mới trong việc phân loại mức độ nguy hiểm của các lỗ hổng bảo mật đã được đưa ra giới thiệu giúp cho các tổ chức trong việc ưu tiên thứ tự các lỗ hổng cần phải sửa. Common Vulnerability Scoring System (CVSS - Hệ thống tính điểm lỗ hổng bảo mật thông thường) xem xét đa dạng các đặc điểm của lỗ hổng bảo mật như tính ưu tiên, khả năng bị khai thác và ảnh hưởng. CVSS được hứa hẹn là sẽ cung cấp một phương thức thống nhất trong việc tính điểm đánh giá các lỗ hổng bảo mật và sẽ sớm được nhiều nhà cung cấp thông tin bảo mật áp dụng. Tuy nhiên, dữ liệu CVSS vẫn cần phải được nâng cấp bổ sung thêm thông tin về giá trị kinh doanh cũng như các mối đe doạ.

Thông tin kinh doanh là sự sống còn trong việc tính toán thứ tự ưu tiên các lỗ hổng bảo mật vì chúng có khả năng kết hợp các mối đe doạ kĩ thuật và lỗ hổng dữ liệu thành một chức năng kinh doanh. Các tổ chức khác nhau về mọi khía cạnh đặc điểm và như vậy họ có những tài sản quản trọng và ứng dụng khác nhau. Các cuộc tấn công ảnh hưởng đến một số các tổ chức có thể làm họ bị phá sản nhưng với một số tổ chức khác thì đó chỉ có thể là sự giám đoạn tạm thời. Tuy nhiên, trên thực tế cuộc sống không hề đơn giản như thế và các lỗ hổng bảo mật các lỗ hổng bảo mật không có tính quan trọng cao đôi khi là là viêc đá lót đường cho việc tận dung khai thác một lỗ hổng bảo mật khác quan trọng hơn.

5. Không được chuẩn bị kĩ càng cho điều chưa biết đến - Lỗi bảo mật zero-day

Lỗi thông thường thứ năm chính là lỗi bảo mật “zero-day exploit”. Lỗi bảo mật này chính là nỗi sợ hãi của rất nhiều các nhà quản lý bảo mật. Trong khi tôi vẫn còn thấy rất nhiều sự bối rối băn khoăn về việc cái gì làm nên “zero-day exploit”? Đơn giản chỉ là việc khai thác một lỗ hổng bảo mật chưa từng được công bố trước đây. Vì thế cho dù bạn đã vá mọi lỗ hổng bảo mật được biết đến thì bạn vẫn cần phải chuẩn bị cho các cuộc tấn công bởi những kẻ tấn công sử dụng các lỗ hổng bảo mật chưa từng đươc biết đến.

Bạn cần phải làm gì? Bên cạnh một chương trình quản lý lỗ hổng bảo mật nhạy cảm bao gồm một khối lượng các công việc có thể bảo vệ bạn khỏi các “zero-day exploit” và giảm sát cẩn thận sự bảo mật mạng máy chủ. Bên cạnh đó bạn cũng cần bảo đảm là mọi kế hoạch đáp trả phải luôn sẵn sàng trong trường hợp bị tấn công. Những tình huống như thế này cần phải được giải quyết bằng cách sử dụng nguyên tác “bảo mật theo chiều sâu” trong các thiết kế cơ sở hạ tầng bảo mật.
HVD - (Computerworld)
Việt Báo (Theo_VnMedia)

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

Về nơi sâu lắng Đa Nhim

 Không phải là công trình lớn nhất, nhưng có lẽ Thủy điện Đa Nhim là công trình ấn tượng nhất trong “làng thủy điện”. Bởi đây là một trong những công trình thủy điện đầu tiên của Việt Nam, có hiệu suất tiêu hao nước thấp nhất nhờ hệ thống ống thủy lực với độ dốc lớn nhất, có cư xá đẹp nhất.

Ống thủy lực đưa nước về nhà máy
Ống thủy lực đưa nước về nhà máy
CôngThương - 50 năm mối tình Việt - Nhật
Nhà máy thủy điện Đa Nhim thuộc nấc thang trên cùng của hệ thống sông Đồng Nai chính thức phát điện ngày 15/1/1964 với tổng công suất 160 MW, do chính phủ Nhật Bản tài trợ xây dựng theo chính sách bồi thường chiến tranh. Sau 50 năm vận hành, Thủy điện Đa Nhim đã trở thành biểu tượng đẹp của tình hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản. Trên bức tường trước gian máy chính của nhà máy vẫn còn tấm biển nhỏ lưu danh những người có công đặt nền móng cho công trình. Đây cũng được coi như một nhân chứng lịch sử chứng kiến những thăng trầm của nhà máy qua hai chế độ.
Đứng trên đỉnh đèo Ngoạn Mục nhìn xuống, toàn cảnh nhà máy hiện ra như một nét chấm phá, đủ gây sự tò mò. Tuy nhiên, ấn tượng nhất vẫn là hai ống thủy lực chạy song song, dài khoảng 2 km, dẫn nước từ trên núi xuống nhà máy. Nhờ độ dốc tới 45O, thế năng lớn nên 2 ống thủy lực này đã cung cấp một lượng nước đủ phát điện với  sản lượng hàng tỷ kWh/năm, suất tiêu hao nước rất thấp, chỉ cần 0,56 m3 cho mỗi kWh, trong khi có những nhà máy, con số này lên tới hàng chục m3nước/kWh. Ban đêm, khi hệ thống điện bảo vệ bật lên, đường ống đẹp như dải lụa hình chữ S, có thể đứng cách xa mấy chục cây số vẫn nhận ra.
Ông Nguyễn Trọng Oánh - Tổng giám đốc Công ty Cổ phần thủy điện Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi cho biết, trong thời gian chiến tranh, đường ống đã từng bị phá hỏng, đã có lúc nhà máy hoạt động chỉ để giữ gìn tổ máy và cung cấp sản lượng điện rất ít cho miền Nam. Sau năm 1975, lực lượng kỹ sư công nhân của nhà máy và cán bộ kỹ thuật từ phía Bắc vào đã tập trung sửa chữa khôi phục, chỉ trong 6 tháng, nhà máy đã được phục hồi và vận hành ổn định. Giai đoạn 1975 -2000,  Nhà máy thủy điện Đa Nhim là đơn vị độc lập nằm trong Công ty Điện lực 2 thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam và đến cuối năm 2000 thì sáp nhập cùng 2 nhà máy khác thành cụm nhà máy Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi.  Năm 2005, Nhà máy Đa Nhim được đưa vào đại tu sau 40 năm vận hành với hàng loạt các hạng mục: Thay mới stator máy phát, các ổ trục đỡ, hệ thống kích từ, máy biến thế và hệ thống điều khiển máy phát điện, thay thế mới tuabin, van chính, hệ thống điều tốc, cung cấp dầu áp suất điều khiển và thiết bị cơ khí thủy công, hệ thống thu thập dữ liệu thủy văn và đường dây 230 kV Đa Nhim - Long Bình. Đến nay, nhà máy vẫn vận hành liên tục như chưa từng biết đến dấu ấn của thời gian.
Theo ông Nguyễn Trọng Oánh, đội ngũ cán bộ công nhân Đa Nhim may mắn được tiếp quản công trình này. Đây không chỉ là công trình có chất lượng tốt về xây dựng và thiết bị mà còn là công trình được bảo quản rất cẩn thận nên vẫn an toàn sau chiến tranh. Năm 1996, Nhà nước đầu tư 66,54 triệu USD để cải tạo lại thiết bị và đường dây, trong đó Nhật Bản đã cho vay ưu đãi 7 tỷ Yên (tương đương 48,6 triệu USD). Đến nay, các tổ máy huy động ở công suất định mức rất cao với thời gian hoạt động từ  7.000-8.000 giờ/năm thiết kế (theo thiết kế là 6.400giờ/năm). Đến tháng 6 /2013, cả hệ thống Đa Nhim- Hàm Thuận– Đa Mi  đã cung cấp cho đất nước 57,2 tỷ kWh, trong đó riêng Thủy điện Đa Nhim 37,2 tỷ kWh điện.
Đa Nhim - Hàm Thuận- Đa Mi đang quản lý, vận hành 13 tổ máy với tổng công suất là 642,5 MW. Điện lượng bình quân hàng năm là 2,6 tỷ kWh. Mới đây, đại diện Jica (Nhật Bản) đã đến thăm quan hệ thống thủy điện Đa Nhim-Hàm Thuận - Đa Mi, họ đánh giá rất cao năng lực quản lý, chất lượng của 3 nhà máy. Vì vậy, Jica đã nhất trí tài trợ vay vốn 85% trong số 1.900 tỷ đồng để mở rộng Nhà máy thủy điện Đa Nhim thêm 1 tổ máy công suất 80MW. Dự kiến đến cuối tháng 9/2013 sẽ ký hiệp định vay vốn giữa 2 chính phủ. Năm 2014 sẽ khởi công xây dựng và phát điện vào năm 2016. Ngoài việc mở rộng thêm  tổ máy Đa Nhim, công ty đang xây dựng thêm một số nhà máy thủy điện nhỏ phía hạ lưu sông Pha để tận dụng nguồn nước từ thủy điện Đa Nhim. Hiện nay, mỗi năm, nguồn nước từ Thủy điện Đa Nhim đã cung cấp hơn 550 triệu m3 nước phục vụ tưới tiêu cho hơn 20.000 ha đất nông nghiệp của Ninh Thuận.
Khu cư xá Đa Nhim nằm trong khuôn viên xanh lý tưởng
Nơi ấm áp tình người
Ông Nguyễn Ngọc Quang, nguyên Phó giám đốc nhà máy thủy điện Đa Nhim - một trong những người tiếp quản nhà máy đầu tiên  không giấu nổi sự xúc động và tự hào khi nhớ lại những năm tháng hết sức khó khăn gian khổ, lãnh đạo nhà máy phải vận động kỹ sư, công nhân tăng gia sản xuất để nuôi nhau. Thiếu thốn đủ bề nhưng tất cả vẫn đoàn kết một lòng bảo vệ và duy trì hoạt động nhà máy. Không chỉ giữ gìn, những người thợ  Đa Nhim còn rất tự hào vì bằng chính sức lực và trí tuệ của mình đã sửa chữa thành công nhà máy sau chiến tranh.
Với những nỗ lực của mình, năm 2005, Nhà máy Thủy điện Đa Nhim đã được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu đơn vị Anh hùng lao động.
Một trong những điều gây ấn tượng mạnh mẽ với những người đến Đa Nhim là khu cư xá dành cho CBCNV nằm trong một khuôn viên xanh lý tưởng với những biệt thự 1 tầng nằm xen giữa những thảm cỏ xanh và cây bóng mát trong không gian thật yên tĩnh và thơ mộng. Dù đã xây dựng được nửa thế kỷ nhưng phong cách thiết kế vẫn rất hiện đại với những căn phòng riêng biệt hợp lý. Đứng từ trên đỉnh đèo nhìn xuống, toàn khu cư xá được bao quanh bởi con đường trải nhựa hình trái tim, có lẽ dụng ý của người thiết kế như muốn khẳng định tình cảm thân thiện đoàn kết giữa những cư dân ở đây. Hiện nay, khu cư xá khá vắng vẻ vì nhiều người có điều kiện đã tự mua đất làm nhà riêng. Với giám đốc Oánh, đây là tín hiệu vui vì CBCNV đã có cuộc sống ổn định. Vì theo ông, chỉ khi những người thợ yên tâm, với cuộc sống gia đình mới có thể toàn tâm toàn ý làm tốt công việc được giao.
Không chỉ chăm lo cho người sống, những người đã hy sinh vì công trình Thủy điện Đa Nhim cũng được thế hệ sau đặc biệt quan tâm chăm sóc. Đài tưởng niệm tri ân những người đã ra đi được đặt trên đỉnh núi, cạnh Trạm quan trắc thủy văn đập Đơn Dương trên độ cao 1.050m để họ có thể dõi theo từng bước trưởng thành của Thủy điện Đa Nhim. Nơi đây đẹp như công viên với đủ loại hoa và sạch sẽ đến không ngờ. Nói như Tổng giám đốc Nguyễn Trọng Oánh, niềm tự hào sâu lắng nhất của người thợ Đa Nhim không chỉ là sự trưởng thành của nhà máy mà còn bởi đây là nơi thấm đậm tình người.
theo bao cong thuong

EVN ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ thị trường điện

Trong nỗ lực triển khai các chương trình CNTT ứng dụng vào quá trình điều hàng sản xuất kinh doanh của ngành điện, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý thành lập Trung tâm Công nghệ thông tin hạch toán phụ thuộc EVN.



Van hanh TTD.jpg

Từ năm 2011, EVN đã đầu tư xây dựng hệ thống quản lý thị trường Vietpool, hệ thống thu thập xử lý dữ liệu đo đếm thanh toán, dự án nâng cấp SCADA/EMS mới (Hệ thống thu thập dữ liệu, điều khiển và giám sát hệ thống/ Hệ thống quản lý năng lượng) tại Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia và dự án bổ sung các thiết bị đầu cuối (RTU), làm tiền đề cho việc xây dựng hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường phát điện cạnh tranh chính thức sau này.

hệ thống cơ sở hạ tầng CNTT phục vụ vận hành thị trường điện đã được EVN xây dựng và tiến hành lắp đặt  theo đúng thiết kế tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia, Công ty mua bán điện và 62/69 nhà máy điện tham gia thị trường điện, trong đó có 28/28 nhà máy điện thuộc EVN. Tất cả đã hoàn thành quá trình thử nghiệm và đi vào vận hành chính thức thị trường điện cạnh tranh.

Cần phải xem ngành Điện là ngành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước


Giá điện đang khiến dư luận xôn xao chỉ là một vấn đề. Đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn vào chiều sâu về bản chất của ngành Điện lực Việt Nam đang hoạt động và phục vụ đất nước như thế nào? Bằng cơ chế nào để giúp EVN có tiền để tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các dự án nguồn và lưới điện như Chính phủ đã giao? Đấy là trăn trở, nhận định và cũng là câu hỏi lớn của Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi đặt ra khi bàn về chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt Nam trong giai đoạn trước mắt, cũng như lâu dài.

Bức tranh tổng thể của EVN

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là một Tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước giữ vai trò trụ cột trong ngành năng lượng Việt Nam. Nhiều thập kỷ qua, EVN đã đầu tư phát triển, vận hành hệ thống điện để đảm bảo cung cấp đủ điện cho nền kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Ngành Điện lực Việt Nam đã có những bước phát triển rất lớn. Những năm 1991-1992, cả nước chỉ có khoảng 6.000 MW, sau 20 năm đổi mới đồng nghĩa với một quá trình đầu tư xây dựng mạnh mẽ, đến nay cả nước đã có tới 28.000 MW và hằng trăm nghìn km đường dây và trạm biến áp từ 500kV trở xuống. EVN hiện có khoảng trên 100.000 cán bộ công nhân viên đảm bảo hoạt động thông suốt từ khâu vận hành các nhà máy phát điện đến truyền tải, phân phối điện, bố trí đều khắp từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, xa và hải đảo.
 


Điều gì khiến những người thợ đường dây, "lính truyền tải" bỏ phố lên rừng? (Ảnh: Lữ Thanh Hải)

Ngành điện là một ngành kinh tế đặc biệt, toàn bộ hệ thống đều là công nghệ hiện đại với kỹ thuật cao. Sản phẩm điện có tính đặc thù, vừa sản xuất vừa tiêu thụ đồng thời cùng một lúc. Hoàn toàn khác với các doanh nghiệp kinh doanh khác, EVN không chỉ làm kinh doanh đơn thuần mà còn làm nhiệm vụ chính trị - đó là đảm bảo đủ điện cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân và còn đảm bảo an sinh - xã hội. Sự lớn mạnh của EVN trong nhiều thập kỷ qua, ngoài sự nỗ lực nội tại còn có sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Nhà nước, các bộ ngành và nhân dân.

Trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng, các thế hệ trước đây và EVN hiện nay đã có tầm nhìn xa thấy rộng, đầu tư vào những dự án có quy mô lớn, mang tính đột phá và có ý nghĩa lịch sử như các nhà máy thủy điện: Hòa Bình (1.920MW), Trị An (440 MW), Yaly (720MW)… Đặc biệt, công trình nổi tiếng do Thủ tướng Võ Văn Kiệt khởi xướng và trực tiếp chỉ đạo, đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam từ Hòa Bình vào Phú Lâm. Đây là công trình Việt Nam xây dựng lần đầu tiên có chiều dài kỷ lục tới 1.567 km, hoàn toàn đi trên đồi núi cao dọc dãy Trường Sơn, theo suốt chiều dài đất nước. Bình thường, công trình này phải xây dựng mất từ 7 đến 8 năm, nhưng ở đây chỉ xây dựng trong vòng 2 năm. Những năm tháng của thời kỳ 1990-1991, miền Nam thiếu điện nghiêm trọng, sự hoàn thành đường dây 500kV đã đưa điện từ miền Bắc vào miền Nam đã thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của đất nước được chuyển biến mạnh mẽ, tạo đà cho việc phát triển kinh tế - xã hội đưa đến thắng lợi như ngày nay.

Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có những chủ trương rất sáng suốt, cho EVN những cơ chế đặc biệt như ban hành Quyết định 747 để EVN làm chủ đầu tư xây dựng khoảng 40 nhà máy thủy điện theo hình thức chỉ định thầu. EVN chỉ đạo từ khâu thiết kế đến khâu chỉ đạo thực hiện, đồng thời sử dụng sức mạnh tổng hợp để huy động các nhà thầu xây dựng trong nước, sử dụng một lượng thiết bị nội địa hóa về cơ khí và chỉ nhập khẩu những thiết bị chính ở nước ngoài. Hàng loạt các dự án đó đều triển khai xây dựng rất nhanh (từ 3-4 năm), đảm bảo chất lượng, hiệu quả kinh tế, đã tạo ra được khoảng 7.000 MW điện bổ sung cho hệ thống điện quốc gia.

Đặc biệt, dự án Thủy điện Sơn La có công suất 2.400 MW, cung cấp điện lượng tới 10 tỷ kWh/năm, đã hoàn thành trước thời hạn 3 năm làm lợi cho Nhà nước hàng chục nghìn tỷ đồng. Đồng thời EVN còn đầu tư rất nhiều dự án nhiệt điện than, nhiệt điện khí như nhà máy nhiệt điện Phả Lại 2, Uông Bí (mở rộng), Hải Phòng, Quảng Ninh… Khu vực miền Nam EVN tập trung xây dựng Trung tâm Điện lực Phú Mỹ - Bà Rịa có công suất tới 4.000 MW và đang khẩn trương xây dựng các nhà máy tua bin khí thuộc Trung tâm Điện lực Ô Môn có công suất 3.300 MW.

Song song với việc phát triển nguồn, EVN còn tập trung đầu tư xây dựng phát triển hệ thống lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối để đồng bộ với các nhà máy phát điện. Ngoài đường dây siêu cao áp 500kV mạch 1, EVN đã xây dựng hoàn thành đường dây 500kV mạch 2. Với quy mô của 2 đường dây này, hằng ngày cung cấp cho miền Nam một lượng điện lên tới 3.000 MW. Đồng bộ với các đường dây 500kV Bắc Nam, EVN còn xây dựng rất nhiều trạm biến áp 500kV, đường dây và trạm 220kV… để đảm bảo ổn định vận hành hệ thống điện.

Giải bài toán lỗ của EVN

Trong nhiều năm qua, EVN đã hoạt động sản xuất kinh doanh rất có hiệu quả, luôn luôn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận cao, đảm bảo đủ vốn để trang trải các hoạt động của ngành và có tiền để làm đối ứng cho việc vay vốn đầu tư những dự án xây dựng nguồn điện, cũng như đầu tư xây dựng rất nhiều dự án đường dây và trạm biến áp từ 500kV trở xuống.

Nhưng trong những năm gần đây, đặc biệt là những năm 2010 - 2011 do nắng nóng kéo dài, chủ yếu là khu vực miền Nam làm cho khu vực này bị thiếu điện nghiêm trọng. Một số các nhà máy điện ở miền Nam phải chạy bằng dầu, giá 1kWh điện chạy dầu lên tới 4.000-5.000 đồng/1kWh. Do đó, EVN đã bị lỗ tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Mặt khác, EVN còn lỗ do làm nhiệm vụ chính trị, đó là phải vay hàng tỷ USD để đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống điện nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên toàn quốc. Ngoài ra, trước đây EVN vay rất nhiều vốn nước ngoài (hàng chục tỷ USD) với tỷ giá thấp, nhưng những năm gần đây tỷ giá đã tăng cao, do đó lỗ về tỷ giá đã lên trên 20 nghìn tỷ đồng. Như vậy, việc lỗ trong sản xuất kinh doanh điện và lỗ về tỷ giá của EVN là sự thật.

Năm 2012, EVN có lãi được khoảng 6.000 tỷ đồng nên đã trả nợ được một phần. Còn năm 2013, chưa quyết toán nhưng có khả năng EVN vẫn bị lỗ. Nguyên nhân do mùa nóng khô hạn vừa qua ở các tỉnh miền Nam bị kéo dài, EVN phải huy động tối đa nguồn điện chạy dầu. Cộng thêm giá khí cũng đã tăng, vì vậy EVN bị lỗ về giá khí lên tới 1.000 tỷ đồng. Cùng với đó, giá than tăng lên, EVN bị lỗ tiếp khoảng 5.000 tỷ đồng. Cộng cả hai khoản này, EVN đã lỗ về giá nhiên liệu đầu vào lên tới 6.000 tỷ đồng. Mặc dù từ 1/8/2013, Chính phủ cho tăng giá điện lên 5%, theo tính toán của EVN phần tiền thu được của việc tăng giá điện được khoảng 3.500 tỷ đồng. Như vậy, trong năm 2013 riêng việc tăng giá nhiên liệu đầu vào trừ đi việc thu tăng 5% giá điện thì EVN đã lỗ tới 2.500 tỷ đồng.

Những con số tính toán trên đặt ra cho EVN những thách thức lớn, đó là phải tìm mọi giải pháp để giải quyết dần số lỗ đã nêu. Để giải bài toán này, trước hết EVN phải tìm mọi biện pháp để giảm tổn thất điện năng từ 9% xuống 8% hoặc 7%. Đặc biệt là việc tiêu hao điện quá lãng phí thể hiện ở cường độ tiêu thụ điện rất cao, làm cho hệ số đàn hồi đang ở mức 2 đến 2,5. EVN cần có sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành, các địa phương để làm cho các doanh nghiệp và người dân phải có ý thức tiết kiệm điện một cách tốt nhất, giảm hệ số đàn hồi từ 2 xuống thấp hơn trong những năm tới. Với tổng sản lượng điện thương phẩm khoảng 130 tỷ kWh, chỉ cần tiết kiệm được 5 - 7% lượng điện thì hằng năm sẽ giảm được hàng nghìn tỷ đồng cho ngành điện. EVN cần tìm mọi biện pháp để giảm giá thành, đảm bảo việc hạn chế lỗ và tăng lãi hàng năm. Mặt khác, số lỗ về tỷ giá thuộc về quản lý vĩ mô, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về số tiền lỗ này.

Một nhiệm vụ quan trọng đó là, EVN cần phải làm tốt hơn nữa công tác chăm sóc khách hàng, việc này phải làm thường xuyên và có biện pháp làm cho khách hàng đồng tình ủng hộ.

Những bất cập về giá điện

Vấn đề giá điện là một việc rất nan giải, do vậy mỗi lần tăng giá thì nhiều người phản ứng rất mạnh. Bởi lẽ, điện là nhu cầu sử dụng của mọi đối tượng, thành phần trong xã hội. Nếu không có điện, hoặc thiếu điện thì hoạt động sản xuất cũng như sinh hoạt của nhân dân sẽ rất nguy hiểm, hậu quả khó lường.
 


Chính phủ cần xem ngành điện là một ngành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước để đưa ra các giải pháp cấp bách huy động vốn, giúp ngành điện có tiền để tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các dự án nguồn và lưới điện như Chính phủ đã giao.

Hiện tại, giá điện của Việt Nam đang ở mức 7cent/kWh thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như: Campuchia giá điện tới 30 cent/kWh, Singapo 10cent/kWh, các nước khác trên thế giới bình quân có giá từ 10cent/kWh trở lên.

Một lý do bất khả kháng nữa là hiện nay do thay đổi khí hậu toàn cầu, trong đó Việt Nam là vùng ảnh hưởng lớn dẫn đến khí hậu nước ta thay đổi bất thường, hàng năm số giờ nắng nóng, khô hạn liên tục kéo dài, đặc biệt là ở khu vực miền Trung và miền Nam. Do vậy, EVN không thể tránh khỏi phải sử dụng dầu để vận hành nhiều nhà máy điện ở khu vực này như tình trạng đã nêu trên. Việc hàng năm cứ tăng 5% giá điện có nghĩa là tăng thêm 1kWh khoảng 70-71 đồng thì EVN cũng chỉ thu về được 3.000-3.500 tỷ đồng, phần chênh lệch này cũng chỉ đủ trả nợ một phần cho số lỗ trước đây, và lỗ hàng năm có thể xảy ra.

Bất cập về giá còn thể hiện ở hàng chục dự án điện dưới hình thức BOT, IPP nằm trong QHĐ VII không hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài cũng bởi chính sách giá điện và trình tự thủ tục đầu tư còn nhiều bất cập, phức tạp. Trên thực tế đã có nhiều nhà đầu tư nước ngoài bỏ cuộc, bởi giá điện của chúng ta còn thấp, không có khả năng thu hồi vốn…

Một nguyên nhân khác là đời sống nhân dân còn quá thấp. Đảng, Chính phủ cần đẩy mạnh việc tái cơ cấu nền kinh tế, tìm mọi biện pháp để nâng đời sống của nhân dân lên. Trước mắt, cần tập trung đột phá việc cải tổ, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước như thay đổi công nghệ, trang thiết bị, phương thức quản lý mới… để tạo ra được sản lượng cao, năng suất cao, chất lượng tốt, tiêu hao năng lượng ít và tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực và thế giới.

Đầu tư và sử dụng vốn

Ngày 21/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số: 1208/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011- 2020 có xét đến năm 2030 (QHĐ VII). Theo QHĐ VII, phải xây dựng 52 nhà máy nhiệt điện chạy than, 2 nhà máy điện nguyên tử và một số dự án thủy điện còn lại. Số vốn đầu tư cho các dự án trên khoảng 50 tỷ USD. Trong đó, giao cho 3 tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước như: EVN, PVN, TKV, còn lại hàng chục dự án BOT, IPP là do nước ngoài đầu tư.

Từ ngày có quyết định đến nay, việc triển khai các dự án đang rất chậm. Việc chậm trễ đó có nhiều nguyên nhân, đầu tiên là khâu chỉ đạo, điều hành. Thứ hai là tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng của từng dự án. Thứ ba là trình tự lập các hồ sơ theo thủ tục xây dựng cơ bản cũng như việc tổ chức đấu thầu rườm rà và kéo dài thời gian. Thứ tư là công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư gặp nhiều khó khăn và nhiều nguyên nhân khác...

Theo mục tiêu của QHĐ VII tới năm 2020 sẽ xây dựng được 75.000 MW, điện lượng phát ra từ 330 đến 360 tỷ kWh/năm. Lúc đó tỷ trọng của nhiệt điện sẽ cao hơn thủy điện để đảm bảo cung cấp đủ điện cho mùa khô, ngoài ra còn có điện dự phòng. Theo QHĐ VII, các dự án xây dựng nhà máy phát điện được bố trí dọc theo duyên hải từ Bắc vào Nam. Nếu hoàn thành được sẽ đảm bảo việc cung cấp điện một cách hợp lý cho từng miền, từng khu vực và từ các nhà máy phát điện lớn sẽ có các đường dây 500kV đấu nối với đường dây trục chính Bắc-Nam, hệ thống lưới điện 500kV Bắc-Nam sẽ làm nhiệm vụ điều hòa toàn bộ hệ thống và tạo ra mạch vòng của lưới 500kV, từ đó sẽ giảm được tổn thất điện năng.

Từ nay đến 2020 chỉ còn 7 năm để thực hiện yêu cầu của QHĐ VII, sẽ rất khó khăn nếu tình hình triển khai chậm, kéo dài như hiện nay, đặc biệt gay cấn nhất đó là việc thiếu vốn của hàng loạt các dự án.

Thực tế hiện nay, trong ba tập đoàn: EVN, PVN, TKV thì số dự án được phân bổ EVN chiếm số lượng nhiều hơn. Hiện tại, trong QHĐ VII, EVN đã hoàn thành được một số dự án bổ sung cho hệ thống điện quốc gia trên 4.000 MW. Đa số dự án còn lại, gồm các dự án nhiệt điện chạy than và một số dự án thủy điện như: Thái Bình 1 (600MW), Duyên Hải 1 (1.200MW), Duyên Hải 3 (1.200 MW), Duyên Hải 3 mở rộng, Vĩnh Tân 2 (1.200MW), Vĩnh Tân 4 (1.200MW), đang đẩy mạnh xây dựng thủy điện Lai Châu, thủy điện Huội Quảng, Bản Chát, Trung Sơn, và một số dự án thủy điện tích năng. Bên cạnh đó, EVN đang đàm phán với nhà thầu Nga và Nhật Bản để sớm duyệt được FS của hai nhà máy điện nguyên tử Ninh Thuận 1 và 2. Các dự án trên sẽ đóng góp hàng chục nghìn MW công suất cho hệ thống điện quốc gia.

Song song với việc xây dựng nguồn điện, EVN còn tập trung xây dựng rất nhiều dự án đường dây và trạm. Trong đó, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (NPT) thành lập cách đây 5 năm đã và đang hoạt động rất tốt, xây dựng rất nhiều đường dây và trạm 500kV, 220kV góp phần cải thiện việc cung cấp điện mùa khô năm nay ở khu vực miền Nam, cũng như các dự án đường dây và trạm đồng bộ với các nhà máy phát điện. Các tổng công ty điện lực miền: Bắc, Trung, Nam và 2 thành phố: Hà Nội, TP. HCM đã, đang tích cực đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống đường dây và trạm từ 110 kV, 22kV, hệ thống lưới điện hạ thế để đưa điện về các hộ tiêu dùng.

Những năm qua, EVN đã tái cơ cấu tổ chức sắp xếp thành lập 3 tổng công ty phát điện (GENCO) để vận hành, quản lý, đầu tư xây dựng các nhà máy phát điện (trừ một số nhà máy thủy điện đa mục tiêu như: Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, Yaly…). Điều này sẽ giảm bớt gánh nặng tập trung ở EVN và tạo điều kiện cho việc đa dạng hóa thị trường phát điện cạnh tranh.

Như vậy, để thực hiện triển khai các dự án xây dựng nhà máy phát điện, xây dựng đường dây và trạm đồng bộ nêu trên, EVN cần phải có một lượng vốn khoảng trên 400.000 tỷ đồng (tương đương 20 tỷ USD). Hiện nay, ngay cả vốn đối ứng để vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước EVN đang gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề này chỉ có một giải pháp duy nhất, đó là Chính phủ cần xem ngành điện là một ngành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước để đưa ra các giải pháp cấp bách huy động vốn, giúp ngành điện có tiền để tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các dự án nguồn và lưới điện như Chính phủ đã giao.

Trọng trách của EVN

Trong "tam giác bền vững" của 3 trụ cột ngành năng lượng Việt Nam gồm EVN, PVN, TKV phải đảm bảo an ninh năng lượng phát triển nền kinh tế đất nước, phục vụ đời sống nhân dân, tiến tới công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Trong 3 trụ cột đó, thì EVN gánh trọng trách nặng hơn. Để thực hiện được nhiệm vụ to lớn của Đảng và Chính phủ giao, bằng đội ngũ cán bộ công nhân có trình độ, có kiến thức, có tầm nhìn, có tư duy đổi mới, sáng tạo, đội ngũ công nhân có tay nghề cao, EVN cần phải tập trung tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong việc đầu tư xây dựng các nhà máy phát điện, đồng bộ với việc xây dựng các đường dây và trạm biến áp.

Nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển, mối quan hệ chặt chẽ giữa việc tăng trưởng điện năng phải phù hợp với tăng trưởng GDP, trong đó, điện luôn luôn đi trước một bước. Để tiến tới năm 2020, đất nước chúng ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì ngành năng lượng nói chung và EVN nói riêng bằng mọi biện pháp tìm ra những khâu đột phá mới để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu của QHĐ VII, đạt được 75.000 MW điện, tương ứng với 360 tỷ kWh/năm. Lúc đó, sản lượng điện đầu người của Việt Nam sẽ đạt được khoảng 3.000 kWh. Đó là một trong những tiêu chí hàng đầu của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Theo: Năng lượng Mới